Lịch sử võ cổ truyền Việt Nam hình thành và phát triển

Tìm hiểu võ cổ truyền Việt Nam lịch sử  hình thành các môn võ này là di sản văn hóa truyền thống của Việt Nam sáng tạo và phát triển với các môn phái khác nhau đến tận ngày nay.

Lịch sử của Võ cổ truyền Việt Nam

Ban đầu, Võ cổ truyền được gọi là Võ ta, là thuật võ của Việt Nam. Người Pháp gọi nó là Annammite (Võ An Nam), trong khi người Mỹ gọi nó là Võ Việt Nam. Năm 1991, Liên đoàn Võ thuật Cổ truyền Việt Nam đã đổi tên Võ ta thành Võ cổ truyền dân tộc Việt Nam.

Trong quá khứ, khi Pháp chiếm Đại Nam, các môn phái Võ cổ truyền bị cấm đoán. Những người lãnh đạo phong trào khởi nghĩa chống Pháp đều là những người am hiểu Võ Việt.

Lịch sử của Võ cổ truyền Việt Nam

Vào khoảng năm 1925, Võ cổ truyền được phục hồi cùng với sự nhập khẩu các môn võ từ nước ngoài như Quyền Anh, Thiếu Lâm… Trong thời kỳ này, nhiều võ sư huyền thoại đã trở nên nổi tiếng.

Trước năm 1945, Tứ Đại Sư Bãi-Múa-Cát-Quế đã được biết đến rộng rãi. Họ đã đào tạo rất nhiều thanh niên yêu nước, sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ quê hương và tạo nên truyền thống võ thuật vững mạnh trên khắp nơi và năm châu.

Sau năm 1945, những đệ tử của ông Quế như Nguyễn Văn Quý, Đặng Văn Hinh và Giáo sư Tiến sĩ Đặng Quang Lương đã tiếp tục phát triển Võ cổ truyền dân tộc Việt Nam. Ba vị sư phụ còn lại trong Tứ đại danh sư được gọi là “Tam Nhựt” (ba mặt trời) gồm Hàn Bái, Ba Cát và Bảy Múa. Họ đã được vinh danh vì đóng góp của mình cho Võ cổ truyền Việt Nam trong thời kỳ đó.

Cho đến khi người Pháp rời Việt Nam và chính quyền của Ngô Đình Diệm ở miền Nam, võ thuật Việt Nam tiếp tục được phục hồi dưới sự lãnh đạo của Tổng hội Võ thuật Việt Nam (VABA) và các Tổng hội Võ sư khác, được gọi là “Tam Nguyệt” (ba vầng trăng). Có nhiều người đã đóng góp và phát triển nền võ thuật Việt Nam, như Trương Thanh Đăng.

Tiếp tục từ năm 1960, một nhóm võ sĩ Nhu Đạo dưới sự chỉ huy của võ sư Phạm Lãi tham gia vào cuộc đảo chính chống lại Ngô Đình Diệm và đã bị đánh bại. Do đó, từ năm 1960 đến năm 1963, Ngô Đình Diệm tiếp tục cấm phát triển võ thuật, bao gồm cả Võ Việt Nam.

Tuy nhiên, từ năm 1964, các môn võ thuật tiếp tục hoạt động, trong đó có Võ Việt Nam. Trong giai đoạn này, Võ cổ truyền phát triển mạnh mẽ không kém các nước trong khu vực như Thái Lan, Indonesia, Hồng Kông, Đài Loan, Lào, Campuchia… Bốn võ sư Từ Thiện-Hồ Văn Lành, Trần Xil, Xuân Bình và Lý Huỳnh đã được vinh danh là người đào tạo ra nhiều võ sư ưu tú cho võ thuật Việt Nam. Đặc biệt, những người này đã mang về chiến thắng cho Việt Nam trên đấu trường quốc tế và được tặng Bằng khen vì thành tích vẻ vang của mình. Từ đó, giới võ thuật đã gọi bốn võ sư này là “Tứ Tử” (bốn ngôi sao sáng), tiếp nối các lớp “Tam Nhứt” và “Tam Nguyệt” trước đó trong việc phục hồi và phát triển truyền thống võ thuật Việt Nam.

Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, do tình hình trật tự an ninh, võ thuật Việt Nam đã tạm ngừng phát triển trong một thời gian.

Năm 1979, khi quân đội Trung Quốc và quân Khmer Đỏ tấn công Việt Nam, nhà nước Việt Nam đã khôi phục hoạt động võ thuật, bao gồm cả Võ cổ truyền dân tộc Việt Nam, nhằm tập hợp thanh niên rèn luyện tinh thần bất khuất, sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ quê hương và đất nước.

Sau đó, các liên đoàn võ thuật đã được thành lập để quản lý phong trào võ thuật, trong đó có Liên đoàn võ thuật cổ truyền Việt Nam (năm 1991). Tuy nhiên, cho đến năm 2007, võ thuật Việt Nam vẫn chưa được quan tâm như các môn võ khác.

Tuy nhiên, từ năm 2007, võ thuật Việt Nam đã bắt đầu nhận được sự quan tâm và phát triển. Với mục tiêu bảo tồn và phát triển Võ cổ truyền Việt Nam, các biện pháp và chính sách đã được đưa ra. Ngày 3/1/2014, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ban hành Quyết định phê duyệt Đề án “Bảo tồn và phát triển võ cổ truyền dân tộc Việt Nam đến năm 2020”.

Đề án này đặt ra những mục tiêu quan trọng nhằm khôi phục và phát huy giá trị của võ cổ truyền dân tộc Việt Nam. Các hoạt động như tìm kiếm, nghiên cứu và phục dựng các bộ môn võ truyền thống, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, xây dựng và phát triển hệ thống giáo trình, quy trình huấn luyện và thi đấu, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi để võ thuật Việt Nam tham gia các sự kiện và giải đấu quốc tế.

Thông qua việc bảo tồn và phát triển võ cổ truyền dân tộc Việt Nam, hy vọng nền văn hóa Việt Nam sẽ được xây dựng một cách tiến bộ và phát triển. Võ thuật Việt Nam không chỉ mang trong mình bản sắc dân tộc, mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển thể dục thể thao của đất nước.

Võ cổ truyền dân tộc Việt Nam đã có một quá trình lịch sử đầy gian truân và khó khăn. Tuy nhiên, với sự quan tâm và nỗ lực của các nhà nghiên cứu, võ sư và các tình nguyện viên, võ cổ truyền dân tộc Việt Nam đang ngày càng phát triển và trở thành một phần quan trọng của di sản văn hóa Việt Nam.

Các môn phái Võ cổ truyền dân tộc Việt Nam

Theo các chuyên gia, võ cổ truyền Việt Nam bao gồm 5 môn phái.

1. Môn phái thứ nhất: Tổ Hà Thanh ( Miền Bắc)

2. Môn phái thứ hai: Tổ Bình Định ( miền trung)

Các môn phái Võ cổ truyền Việt Nam

3. Môn phái thứ ba: Tổ phương Nam ( Nam Bộ)

4. Môn phái thứ tư: Các môn phái có nguồn gốc từ Trung Quốc

5. Môn phái thứ năm: Võ Việt Kiều

Rõ ràng, võ cổ truyền Việt Nam không đơn thuần là những môn võ nhằm rèn luyện kỹ năng. Thể lực cho con người, nâng cao khả năng tự vệ, hướng tới sự hài hòa về thể chất và tinh thần của con người. Việc luyện tập võ cổ truyền còn khơi dậy lòng yêu nước. Tự hào dân tộc, tinh thần thượng võ và nhân văn của người Việt Nam.

Xem thêm: Võ Bình Định? Tổng hợp tất cả các bài võ Tây Sơn Bình Định

Vì vậy, việc nghiên cứu và bảo tồn các môn phái võ thuật. Chắc chắn có vị trí hết sức quan trọng góp phần kết tinh những giá trị truyền thống tốt đẹp của nền võ học nước nhà.